
Viêm tiền liệt tuyến là bệnh thường gặp ở nam giới dưới 50 tuổi, và là bệnh thường được chẩn đoán đứng hàng thứ 3 ở nam giới trên 50 tuổi (sau bướu lành, và ung thư tiền liệt tuyến). Viêm tiền liệt tuyến cấp rất hiếm và có biểu hiện lâm sàng giống như nhiễm trùng tiểu. Mẵc dù việm tiền liệt tuyến cấp ít gặp hơn mạn tính, nhưng chẩn đoán thì đễ dàng hơn. Khoảng 5% các trường hợp viêm tiền liệt tuyến cấp sẽ chuyển sang mãn tính,[1] bệnh viêm mãn tính là bệnh có nhiều cách phân loại, và người ta vẫn còn hiểu biết ít về nó, một phần vì có nguyên nhân không rõ ràng, và không có triệu chứng lâm sàng rõ ràng như bệnh viêm cấp tính.

Có 4 thể lâm sàng của viêm tiền liệt tuyến.
Phân loại viêm tiền liệt tuyến theo NIH
-
Loại I– Viêm nhiễm khuẩn cấp: Triệu chứng thường xuất hiện bất ngờ, bao gồm: sốt và rét, có cảm giác như bị cúm, đau ở tuyến tiền liệt, ở phần dưới thắt lưng hoặc ở vùng sinh dục, đái dắt, đau rát hoặc khó khăn khi đi tiểu, đôi khi trong nước tiểu, trong tinh dịch có máu, đau khi xuất tinh. Viêm tuyến tiền liệt cấp là một bệnh nghiêm trọng, cần phải đi viện điều trị kịp thời[2].
-
Loại II– Viêm tuyến tiền liệt nhiễm khuẩn mãn tính: Triệu chứng gần giống như viêm cấp nhưng phát triển chậm hơn và không nguy hiểm bằng viêm cấp. Viêm tuyến tiền liệt mãn chỉ sốt nhẹ, thường hay đi tiểu đêm và kéo theo cả viêm bàng quang tái phát.
-
Loại III– Viêm tiền liệt tuyết mãn không nhiễm khuẩn: Đây là loại phổ biến nhất. Nói chung các biểu hiện và triệu chứng của dạng này giống với type II, nhưng hầu như không bị sốt. Tuy nhiên sự khác nhau chính là không thấy vi khuẩn khi làm xét nghiệm nước tiểu và trong dịch của tuyến tiền liệt. Có khi có các tế bào mủ trong nước tiểu.
-
Loại IV– Viêm tuyến tiền liệt không có triệu chứng: không cần xử lý.
- Bệnh viêm tuyến tiền liệt rất khó chuẩn đoán một phần vì triệu chứng của nó khá giống với một số bệnh khác, ví dụ như bệnh viêm nhiễm bàng quang hoặc niệu đạo
Lịch sử và dịch tể học
Sinh lý bệnh học
Nguyên nhân
Nững vi khẩn kị khí và vi trùng gram dương ngoài cầu trùng đường ruột hiếm khi gây bệnh này. Cầu trùng đường ruột chiếm 5-10% nhiễm trùng tiền liệt tuyến được ghi nhận. Nhiễm Staphylococcus aureus do đặt thông tiểu kéo dài có thể xảy ra trong môi trường bệnh viện. Những nguyên nhân khác bao gồm Neisseria gonorrhea, Mycobacterium tuberculosis, Salmonella species, Clostridium species, và ký sinh trùng hay vi nấm. N gonorrhea ( vi trùng lậu ) nên nghi ngờ đàn ông đang ở tuổi hoạt động tình dục trẻ hơn 35 tuổi. Nếu có nhiễm trùng tiểu phối hợp thì nên tìm hiểu xem có bất thường cấu trúc giải phẫu học hay không.
Yếu tố nguy cơ
Những yếu tố nguy cơ sau đây của viêm tiền liệt tuyến cấp tính
- Có trào ngược ống tuyến tiền liệt tuyến
- Hẹp da quy đầu hay da quy đầu dài
- Nhóm máu đặc biệt
- Quan hệ quan hậu môn mà không bảo vệ
- Nhiễm trùng tiểu
- Viêm mào tính cấp
- Đang đặt thông tiểu
- Phẫu thuật qua ngã niệu đạo.
- Thay đổi chất tiết tiền liệt tuyến
Tiên lượng
Nếu sau đợt điều trị ban đầu thuận lợi, tiên lượng bệnh nhân rất tốt. Giảm khả năng sinh sản, nhưng chỉ trong vài trường hợp nhiễm trùng nặng. Giảm sức sống của tinh trùng, gồm có suy giảm khả năng di động và kết dính cũng có thể có trong những trường hợp cấy thấy có hơn 106 khúm (colony) vi trùng/ml.Áp-xe tiền liệt tuyến cũng hay thường gặp, đó là biến chứng được mô tả ất kỹ của áp-xe tiền liệt tuyến. Mặc dù hiếm, nó cũng thường xảy ra ở bệnh nhân có suy giảm miễn dịch, tiểu đường, hay có làm thủ thuật qua ngã niệu đạo, hay những người đang lọc máu. E coli là vi trùng gây bệnh trong đa số các trường hợp, hơn 70%.
Hậu quả khác của viêm tiền liệt tuyến cấp bao gồm diễn tiến viêm tiền liệt tuyến mãn, nhiễm trùng huyết, viêm đài bể thận, viêm mào tinh hoàn.
Triệu chứng lâm sàng
- Bệnh sử
Viêm tiền liệt tuyến cấp có bệnh sử đột ngột sốt cao, lạnh run, mệt mỏi, tiểu gắt, đau tầng sinh môn hay đau trực tràng. Có thể có tiểu khó, tiểu nhiều lần, tiểu gấp và thi thoảng có bí tiểu. Viêm tiền liệt tuyến cấp cũng có thể là biến chứng của đặt thông tiểu hay soi bàng quang hay sinh thiết gì trước đó. Tiểu máu hiếm những đôi khi cũng có.
- Khám lâm sàng
Thăm tiền liệt tuyến qua ngã trực tràng có thể sờ thấy tiền liệt tuyến rất đau, nhiều lúc triệu chứng chỉ là đau tầng sinh môn cũng đủ để chẩn đoán. Đôi khi có bí tiểu, biểu hiện như là không có khả năng đi tiểu, và bụng chướng.
Chẩn đoán phân biệt bao gồm
- Phì đại tiền liệt tuyến có bí tiểu
- Viêm bàng quang
- Ung thư tiền liệt tuyến
- Áp-xe tiền liệt tuyến
- Viêm túi tinh
- Viêm niệu đạo
- Nhiễm trùng tiểu ở nam
Cận lâm sàng
Ở bệnh nhân viêm tiền liệt tuyến cấp, chất tiết tiền liệt tuyến chứa rất nhiều bạch cầu, đại thực bào. Tuy nhiên, mát-xa tiền liệt tuyến lấy chất dịch không nên làm thường qui để chẩn đoán.Vì viêm tiền liệt tuyến có những triệu chứng kích thích và tắt nghẽn, sử dụng niệu dòng đồ có thể giúp tránh được chẩn đoán lầm. Tuy nhiên, đối với viêm mạn tính thì nên làm còn cấp tính thì nên hạn chế.
Nếu nghi ngờ áp-xe tiền liệt tuyến thì nên siêu âm tiền liệt tuyến qua ngã trực tràng hay CT scan bụng có cản quang để khẳng định chẩn đoán.
Thi thoảng cấy máu cũng có tác dụng.
- Xét nghiệm nước tiểu
Tổng phân tích nước tiểu có bạch cầu, và cấy nước tiểu dương tính là chủ yếu để có chẩn đoán viêm tiền liệt tuyến cấp tính. Mẫu nước tiểu nên lấy giữa dòng trước khi mát-xa và sau khi mát-xa tiền liệt tuyến. Gọi là test 2 ly. Nếu bệnh nhân có sốt hay có dấu hiệu của viêm tiền liệt tuyến cấp, thỉ chỉ cần lấy nước tiểu giữa dòng, không cần mát-xa tiền liệt tuyến. Phết que dịch niệu đạo để cấy, hay cấy nước tiểu sau mát xa có thể là những phương pháp thay thế cho những bệnh lý có triệu chứng giống hội chứng tiền liệt tuyến.
Điều trị
Thận trọng
Bởi vì khả năng nhiễm trùng toàn thân hay nhiễm trùng huyết là rất lớn. Vì vậy làm thủ thuật đụng chạm đến tiền liệt tuyến nên tránh, đặc biệt ơ bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng không ổn định hay đã có dấu hiệu của nhiễm trùng huyết rồi. Dẫn lưu băng ống nhỏ có tể thực hện được bởi người có kinh nghiệm tuy nhiên phải cho kháng sinh trước là bắt buộc.Mỗ lớn để dẫn lưu qua ngã tầng sinh môn hay niệu đạo không nên tực hiện thường qui, trừ khi chọc hút thất bại, rạch da vùng tầng sinh môn có thể gây liệt dương do tổn thương thần kinh, cắt tiền liệt tuyến qua ngã niệu đạo có thể làm nhiễm trùng huyết.
Ngược lai ở bệnh nhân có nhiễm trùng huyết, cắt qua ngã niệu dạo cũng có thể là phương pháp cứu mạng nếu các phương pháp điều trị bảo tồn thất bại.
Nếu bệnh nhân có bí tiểu, thử đặt Foley và tuỳ theo độ dung nạp của bệnh nhân; tuy nhiên điều này cũng có thể gây khó chịu cho bệnh nhân. Nếu đặt kho quá thì nên mở bàng quang ra da.
Lựa chọn cách điều trị
Khi tiền liệt tuyến viêm dữ dội, thì đáp ứng kháng sinh rất tốt, nếu không thì nó thấm vào tiền liệt tuyến rất kém. Nhập viện cho những bệnh nhân có bí tiểu và những bệnh nhân nào cần đến kháng sinh chích mạch. Hạ sốt, giảm đau, thuốc làm mềm phân, nghỉ ngơi tại giường tăng cường uống nước là những phương pháp điều trị hỗ trợ. Chọc dẫn lưu trên xương mu, nếu không đặt được thông tiểu. Thông tiểu sẽ rút 24-36 giờ sau.
Ức chế anpha cũng có thể cho. Bởi vì cổ bàng quang và tiền liệt tuyến giàu thụ thể anpha, ức cế anpha có thể làm cho giảm triệu chứng tắt nghẽn trong tiền liệt tuyến (terazosin 5 mg/ngày trong 4-52 tuần). Tamsulosin (Flomax), alfuzosin (Uroxatral), và doxazosin (Cardura) cũng được chấp nhận như là liệi pháp thay thế.
Điều trị nội khoa thường không thành công trong trường hợp áp-xe vì vậy nên kết hợp dẫn lưu.
Điều trị kháng sinh
Điều trị kháng sinh thích hợp nhất là dựa trên kháng sinh đồ. Tuy nhiên điều trị ngay lúc ban đầu khi chưa có kết quả KSĐ nên hướng tới vi trùng gram âm đường ruột. Những thuốc này bao gồm fluoroquinolones, trimethoprim-sulfamethoxazole, và ampicillin với gentamicin.Nếu đáp ứng lâm sàng ban đầu tốt, và sau đó thấy kháng sinh nhây với vi trùng thì nên tiếp tục điều trị với kháng sinh đã chọn bằng đường uống tiếp tục 30 ngày ể phòng ngừa viêm tiền liệt tuyến mãn và hình thành áp-xe.
Đối với đường truyền mạch sử dụng trimethoprim-sulfamethoxazole (Bactrim), 8-10 mg/kg/ngày (dựa trên thành phần trimethoprim) trong 2-4 liều tiêm mạch (IV) 2 lần trong ngày, 3 lần trong ngày, hoặc 4 lần trong ngày cho tới khi có kết quả cấy trên kháng sinh đồ. Thay thế gentamicin với ampicillin 3-5 mg/kg/ngày IV (gentamicin 3 lần ngày; ampicillin 2 g 4 lần trong ngày). Sau khi bệnh nhân không sốt 24 giờ, thì đổi qua kháng sinh đường uống trog 30 ngày.
Khi sử dụng kháng sinh uống, sử dụng trimethoprim-sulfamethoxazole (Bactrim), 160 mg of trimethoprim and 800 mg of sulfamethoxazole, PO 2 lần trong 30 days. Sử dụng levofloxacin (Levaquin) 500 mg PO 2 lần trong ngày; ciprofloxacin, 500 mg PO 2 lần trong ngày; norfloxacin, 400 mg PO 2 lần trong ngày; ofloxacin, 400 mg PO 2 lần trong ngày; hoặc enoxacin, 400 mg PO 2 lần trong ngày trong 30 khi lâm sàng đáp ứng tốt.
Nếu có áp-xe, kháng sinh chống lại vi khuẩn kị khí nên cho vào phát đồ. Clindamycin 600-900 mg IV mỗi 8 giờ (q8h) hoặc 150-450 mg uống mỗi 8h là một lựa chọn tốt. Tuy nhiên, điều trị nội khoa thường không thành công.Vì vậy nên kết hợp dẫn lưu.
One thought on “Viêm tiền liệt tuyến cấp tính”
Comments are closed.